Những
diễn biến bên trong các cuộc biểu t́nh diễn ra vào ngày 5 tháng Sáu vừa
qua tại Hà Nội và Sài G̣n lại một lần nữa cho thấy không phải chính quyền
Việt Nam (do Đảng Cộng sản Việt Nam kiểm soát toàn diện) không uất ức
trước sự khinh thường, ngỗ ngược của “người bạn bốn tốt”. Vấn đề là chính
quyền Việt Nam c̣n rất sợ những hoạt động tập hợp dân chúng trên đường phố,
dù chỉ là kết quả của một kế hoạch kín đáo với sự kiểm soát chặt chẽ của
chính quyền, có thể sẽ chuyển thành hoặc mở ra những cơ hội mới cho công
cuộc dân chủ hóa - cuộc đấu tranh nhằm băi bỏ chính thể phi dân chủ hiện
hành.
Theo lẽ tự nhiên, những người đang cầm quyền độc
đoán sợ “dân chủ hóa” hay “diễn biến ḥa b́nh” là đúng. Bởi những người
cầm quyền độc đoán không thể không hoảng sợ khi nghĩ đến lúc phải đối diện
với công lư v́ những hành động nhẫn tâm, ngược đăi con người một cách tùy
tiện. Đó cũng là một đặc điểm chung của tâm lư học tội phạm.
Đấy là chưa kể tới ḷng tham những đặc quyền vô bờ
mà người cầm quyền và gia đ́nh họ đang thoải mái tận hưởng sẽ phải chấm
dứt ngay lập tức một khi các thiết chế dân chủ của nhà nước và xă hội được
h́nh thành.
“…Việc ǵ phải tôn trọng một chính quyền đang
e sợ chính đồng bào của nó?”
Nhưng trong t́nh h́nh hiện nay, việc sợ hăi “dân chủ
hóa” hay “diễn biến ḥa b́nh” là nỗi sợ thiếu sáng suốt. Trước ngày
26/5/2011, chắc rằng vẫn có nhiều người tin rằng Trung Quốc có thể nuốt
chửng cả Việt Nam nhưng vẫn dành cho Đảng Cộng sản Việt nam một chỗ dung
thân. Niềm tin (kỳ cục) đó, đă được truyền tụng trong dân chúng bao năm
qua bằng câu “Đi với Mỹ, mất Đảng. Đi với Tàu, mất nước”, chắc chắn nay
không thể c̣n khi Trung Quốc đă cắt thẳng vào cáp thăm ḍ “tiền bạc” của
chiếc tàu B́nh Minh 2 của Chính phủ Việt Nam (tức cũng là của Đảng Cộng
sản Việt nam). Như vậy, tất cả mọi người Việt Nam hiện nay, từ quốc nội
đến hải ngoại, từ trong Đảng đến ngoài Đảng, đều phải nhận thấy rơ tất cả
đang có một kẻ thù chung là: mộng bá quyền Trung Quốc.
Mà để chống được kẻ thù chung th́ không c̣n con
đường nào khác là phải đoàn kết, đoàn kết thực sự giữa mọi tầng lớp nhân
dân với chính quyền-một yêu cầu tiên quyết ở mọi thời đại. Nhưng chừng nào
người cầm quyền c̣n e sợ người dân nổi dậy lật đổ ḿnh, chừng nào người
khát khao dân chủ c̣n chưa thể tin được vào người cầm quyền th́ chừng đó
sự rạn nứt, chia rẽ dân tộc vẫn chưa thể hàn gắn được. Khi đó mọi “đoàn
kết dân tộc” do chính quyền khởi xướng sẽ chỉ là những tập hợp lỏng lẻo,
thiếu hụt, nhất thời và đầy âm mưu.
Chỉ có dân chủ hóa một cách chủ động và từng bước
mới có thể xóa dần mọi nghi kỵ giữa các thành phần dân tộc, để tiến tới
một “đoàn kết dân tộc thực sự đủ để chặn đứng dă tâm xâm lược đang ngày
càng táo tợn. Lịch sử cũng cho thấy hiểm họa mất nước luôn tạo cơ hội vàng
cho những người cầm quyền lập công hiển hách hay đái tội tày đ́nh.
Hơn nữa, những kinh nghiệm và hiểu biết của nhân
loại cho tới nay đă đủ để cho nhiều người Việt Nam phải hiểu rằng dân chủ
hóa không nhằm để tước bỏ quyền lợi của ai mà để tạo ra sự b́nh đẳng về cơ
hội cho tất cả mọi người, không phải để trả thù cho những đau khổ cũ v́ sự
trả thù chỉ gây khó khăn cho dân chủ. Các cổ xúy cho dân chủ cũng không
phải là luận điệu nhằm để gài bẫy các nhà cầm quyền độc đoán bởi dân chủ
có những giá trị nền tảng là đàm phán, thỏa hiệp và khoan dung.
Rạn nứt, chia rẽ có thể che đậy được đối với người
cùng một nước nhưng là không thể đối với những kẻ có dă tâm xâm lược. Chỉ
bốn ngày sau hai cuộc biểu t́nh “tự phát” vẫn c̣n âm vang ở hai đầu đất
nước, Trung Quốc không chỉ yêu cầu chính quyền Việt Nam phải “nỗ lực” hơn
nữa mà c̣n tiếp tục “cắt cáp”. Nhưng, sự ngang ngược, thách thức của Trung
Quốc cũng có cái lư của họ: C̣n ǵ phải đắn đo trước một dân tộc đang bị
chia rẽ? Việc ǵ phải tôn trọng một chính quyền đang e sợ chính đồng bào
của nó ? |