Báo
VietNamNet ngày 31-5-2011 dẫn lại thông tin từ Reuters cho biết liên quan
đến vụ tàu hải giám Trung Quốc xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế của Việt
Nam, trong cuộc họp báo thường kỳ chiều 31-5, người phát ngôn Bộ Ngoại
giao Trung Quốc Khương Du một lần nữa khẳng định: “Các hoạt động thực thi
mà các tàu hàng hải của Trung Quốc đă tiến hành đối với các hoạt động bất
hợp pháp của tàu Việt Nam là hoàn toàn hợp lư”. Người phát ngôn Bộ Ngoại
giao Trung Quốc c̣n tuyên bố: “Chúng tôi yêu cầu phía Việt Nam chấm dứt
ngay các hoạt động xâm phạm chủ quyền của chúng tôi và tránh tạo ra những
sự cố mới”.
Thực ra những lời tuyên bố của phía Trung Quốc không
có ǵ mới.
Vào tháng 2-1992 Trung Quốc đặt ra “Luật về lănh hải
và vùng nước tiếp giáp của nước CHND Trung Hoa” (Luật lănh hải), đây chỉ
là cụ thể hóa “Tuyên bố của Chính phủ Nước Cộng ḥa Nhân dân Trung Hoa về
Lănh hải (Được thông qua trong kỳ họp thứ 100 của Ban Thường vụ Đại hội
đại biểu Nhân dân toàn quốc ngày 4 tháng 9 năm 1958).
“Luật về lănh hải và vùng nước tiếp giáp của nước
CHND Trung Hoa” gồm 17 điều. Biên độ lănh hải theo luật này áp dụng “12
hải lư tính từ đường bờ biển cơ bản (Điều 3). Hơn luật lănh hải này c̣n
qui định phạm vi lănh hải của Trung Quốc bao gồm cả vùng biển tiếp giáp
với nội thủy và lănh thổ trên đất liền” Điều 2 về lănh thổ trên đất liền
xác định “tất cả đại lục Trung Quốc, các đảo ven biển, Đài Loan và các đảo
phụ thuộc bao gồm đảo Điếu Ngư (Senkaku-theo cách gọi của Nhật Bản), quần
đảo Bành Hồ, các quần đảo Đông Sa, Tây Sa, Trung Sa, Nam Sa và kể cả các
đảo nhỏ khác có tên gọi Trung Quốc để khẳng định phạm vi chủ quyền của
Trung Quốc.
Điểm đáng lưu ư là Điều 14 cho rằng “Trung Quốc có
quyền truy đuổi tàu bè nước ngoài vi phạm luật pháp Trung Quốc” và “giữ
quyền truy đuổi ở vùng biển nằm ngoài lănh hải Trung Quốc” việc truy đuổi
được thực hiện bởi những lực lượng quân sự như tàu chiến, máy bay của quân
đội hay tàu bè, máy bay được chính phủ trao quyền chấp hành công vụ”.
Như vậy, chúng ta đă thấy rơ rằng Luật này đă lờ đi
những ǵ Trung Quốc đă cam kết quốc tế trong lần kư kết Công ước quốc tế
về biển của LHQ (UNCLOS) vào năm 1982. (1)
Tất cả những căn cứ trên đă cho thấy rằng tư tưởng "Chủ
quyền thuộc ngă" của Trung Quốc trên Biển Đông là không thay đổi, cho nên
những ai tin tưởng vào thiện chí của Trung Quốc đều là ảo tưởng.
Trong một khía cạnh khác, Trung Quốc đưa ra “gác
tranh chấp, cùng khai thác” (2) là một
chủ trương nghe qua có vẻ ḥa hoăn nhưng thực chất đây là một xu thế tấn
công trên bàn đàm phán trong khi chờ “điều kiện chín muồi” để sử dụng bạo
lực. Các chuyên gia về Trung Quốc ở Nhật Bản phân tích: “Trung Quốc một
mặt chủ trương “giải quyết ḥa b́nh” cuộc tranh chấp nhưng mặt khác lại
củng cố chiếm cứ bằng sức mạnh quân sự, cố chấp đàm phán song phương với
nước có yêu sách về chủ quyền, phản đối việc giải quyết bằng thương lượng
đa phương. Mặt khác Trung Quốc vừa đưa ra chủ trương “cùng nhau khai thác”
tài nguyên đáy biển, “gác lại” vấn đề lănh thổ với tiền đề là Hoàng Sa và
Trường Sa và các đảo nhỏ, dăy đá ngầm khác là của Trung Quốc, lập trường
xem Biển Đông là vùng biển “mang tính lịch sử”, chủ trương “giải quyết ḥa
b́nh” để “cùng khai thác” bằng cách “gác lại” nhưng chính Trung Quốc là
nước thực quyền chi phối các quần đảo này”.
“… Tư tưởng ‘Chủ
quyền thuộc ngă’ của Trung Quốc trên Biển Đông là không thay đổi…”
V́ vậy, nếu chấp nhận đàm phán với Trung Quốc theo
phương thức này như Đại sứ Trung Quốc Tôn Quốc Tường đă nói chính là lọt
bẫy của Trung Quốc, thừa nhận một tiền đề là Trung Quốc có chủ quyền đối
với hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa, một cái lưới mà Đặng Tiểu B́nh từng
sử dụng khi đàm phán về chủ quyền đảo Senkaku với Nhật Bản khi b́nh thường
hóa quan hệ Trung-Nhật. Vấn đề Hoàng Sa bị Trung Quốc chiếm cứ tháng
1-1974 hay 7 đảo thuộc quần đảo Trường Sa đă bị chiếm đóng năm 1988 mới là
vấn đề Việt Nam cần thương lượng để đ̣i phía Trung Quốc trao trả v́ đây là
chiếm cứ trái phép, xâm phạm chủ quyền lănh thổ của nước CHXNCN Việt Nam
chứ không thể đánh tráo bằng cụm từ “vấn đề do lịch sử” để lại theo chủ
trương của nhà cầm quyền Trung Quốc.
Thử hỏi Việt Nam đă có bao giờ mang quân sang gây
hấn, hay tàu chiến của Hải quân Việt Nam bắt bớ, đánh đập và đ̣i tiền
chuộc ngư dân Trung Quốc bao giờ chưa? Thế mà những người “đồng chí”, “anh
em” đó đă làm như vậy, thường xuyên hù dọa, nạt nộ… th́ người dân b́nh
thường như chúng ta sẽ phải hiểu như thế nào?
Thiết tưởng trong thế trận quốc pḥng toàn dân,
ngoài vấn đề xây dựng ư thức bảo vệ lănh thổ và biển đảo, cần có sách lược
và lộ tŕnh lâu dài, từng bước bền bỉ để biến cái “không thể tranh căi”
trở thành điều “có thể thương lượng được” với phía “bạn” trong việc trao
trả những ǵ vốn là của dân tộc Việt Nam một cách ôn ḥa theo đúng “phương
châm 16 chữ vàng” và “tinh thần 4 tốt” mà lănh đạo cao nhất của nhà nước
Trung Quốc cam kết v́ đây cũng là chỗ dựa để chúng ta có thể đặt lại vấn
đề chủ quyền biển đảo một cách ṣng phẳng và tỉnh táo. Dù muốn hay không,
người Việt Nam hôm nay phải gánh vác vai tṛ lịch sử đó.
Chúng ta không thể hô hào măi khẩu hiệu “Hoàng Sa-Trường
Sa là của Việt Nam” mà nên kết hợp thành một cuộc vận động quốc tế đ̣i
trao trả Hoàng Sa-Trường Sa trong hoạt động đối ngoại, là một chủ đề trọng
tâm trong những cuộc tiếp xúc để củng cố và nâng cao hợp tác song phương
và đa phương ở tầm cao chiến lược trong khu vực và trên phạm vi toàn cầu.
Thế giới phẳng ngày nay đă cung cấp cho Việt Nam một phương tiện để quảng
bá những vấn đề cần được phổ biến ra bên ngoài trong thế chủ động, vấn đề
c̣n lại là liệu chúng ta có lợi dụng được nó, phát huy tác dụng hỗ trợ
tích cực này được đến đâu mà thôi.
Trộm nghĩ nếu giữa hai nước Việt-Trung không tồn tại
cái gọi là “vấn đề do lịch sử để lại” th́ mối quan hệ này tốt đẹp biết bao,
khả năng hợp tác toàn diện và chiến lược sẽ đưa Việt Nam lẫn Trung Quốc
lên một tầm cao tương xứng với ḷng tri ân và sự ngưỡng mộ, tin cậy và tôn
trọng lẫn nhau của nhân dân hai nước thay v́ kích động ḷng “hănh tiến dân
tộc” Đại Hán mà một số người nào đó đang rắp tâm theo đuổi. Phải chăng đó
là một quan hệ hài ḥa, công bằng, b́nh đẳng đem lại sự phồn vinh lâu bền
cho cả hai dân tộc chúng ta.
Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào đă từng nói rằng
“phải cùng với các nước trên thế giới thúc đẩy xây dựng một thế giới hài
ḥa, cố gắng tôn trọng lẫn nhau, tăng thêm nhận thức chung và cùng chung
sống hài ḥa với các nước trên thế giới, ra sức đi sâu hợp tác, cùng phát
triển và đôi bên cùng có lợi với các nước trên thế giới, tích cực đề xướng
chủ nghĩa đa phương, thúc đẩy dân chủ hóa quan hệ quốc tế và giao lưu văn
hóa quốc tế, thực hiện mục tiêu cùng phồn vinh”. Nếu nhà đương cuộc Trung
Quốc áp dụng tinh thần chỉ đạo này vào vấn đề biên giới trên Biển Đông th́
chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa có thể giải
quyết trọn vẹn và chóng vánh v́ mọi người đă có Công ước về Luật Biển của
LHQ (UNCLOS) làm cơ sở quốc tế vững chắc.
Ngày 12/1/2010, trong buổi tiếp Giáo sư Joseph Nye (Mỹ),
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phát biểu: “Mọi hành vi bắt nạt nước khác đă lỗi
thời. Bất kỳ quốc gia nào muốn đứng trên bắt nạt dân tộc khác th́ thời đại
này cũng khó thực hiện được và không có lợi cho bất kỳ ai”. Quan hệ Việt-Trung
trong những năm trước và sau ngày Việt Nam thống nhất đất nước, có lúc đă
xảy nhiều sự kiện đáng buồn như Trung Quốc tranh thủ “thời cơ” đem quân
chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa năm 1974 và một số đảo ở Trường Sa năm 1988,
1992, xua lính tràn sang biên giới “cho Việt Nam một bài học” vào năm 1979
và mới đây sự kiện ngày 26/5/2011 đă chứng minh tư duy “lỗi thời” như đe
dọa, nạt nộ mà Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhắc nhở không hề thừa, ngược lại,
phản ánh nghĩ suy và lo lắng của nhân dân Việt Nam trước những bản tin đầy
quan ngại từ Biển Đông suốt cả năm nay, cho phép chúng ta nghi ngờ những
lời phát biểu tốt lành của các nhà lănh đạo Trung Quốc nhân dịp 60 năm kỷ
niệm ngày thành lập quan hệ ngoại giao Trung-Việt cách đây không lâu.
(3)
Trong bối cảnh quốc tế và ư đồ của nhà nước Trung
Quốc như đă nói ở trên, vấn đề chủ quyền trên Biển Đông hiện nay của Việt
Nam đang gặp nhiều bất lợi nếu không t́m giải pháp hữu hiệu để đối phó.
Không nước nào có thể khai thác tài nguyên ở thềm lục địa Trường Sa nếu
chủ quyền các đảo tại đây chưa được xác định và được nh́n nhận bởi các bên
liên quan. Vấn đề “gác tranh chấp, cùng khai thác” đă được phía Trung Quốc
đưa ra, nhưng sẽ rất khó thực hiện mỗi khi Trung Quốc khăng khăng yêu sách
chủ quyền trên Biển Đông theo “chiếc lưỡi ḅ”. Vả lại, nếu thực hiện th́
phía chịu nhiều thiệt tḥi vẫn là Việt Nam. Việc tranh chấp, đôi co có thể
kéo dài thêm nhiều thập niên, vẫn giữ “nguyên trạng”, nếu các bên tranh
chấp vẫn tôn trọng Qui tắc ứng xử Biển Đông (DOC) đă được các nước ASEAN
kư với Trung Quốc năm 2002. Với thời gian, chỉ cần một, hai thập niên nữa,
sự lớn mạnh về kinh tế và quân sự (hải-không quân) của Trung Quốc không
những chỉ dễ dàng thâu tóm Biển Đông mà c̣n đặt được ảnh hưởng của ḿnh
đến các nước trong khu vực là một nguy cơ, đe dọa đến ḥa b́nh, an ninh và
ổn định của khu vực và thế giới.
“… Những bản tin
đầy quan ngại từ Biển Đông suốt cả năm nay, cho phép chúng ta nghi ngờ
những lời phát biểu tốt lành của các nhà lănh đạo Trung Quốc…”
V́ thế, cần có một giải pháp ngăn ngừa khả năng xấu
nhất xảy ra. Việt Nam cần làm như thế nào, trước t́nh trạng căng thẳng
hiện nay, để có thể khai thác, ít ra một phần, ở những vùng biển thuộc khu
vực kinh tế đặc quyền của nước ḿnh? Giải pháp nào có lợi nhất cho Việt
Nam trong việc bảo vệ chủ quyền các đảo và hải phận Biển Đông?
Theo các chuyên gia về luật pháp quốc tế và quan hệ
quốc tế ở Đông Nam Á, các yếu tố xét ra có lợi cho Việt Nam, đó là:
1. Việt Nam tôn trọng các công ước quốc tế mà
Việt Nam đă kư kết.
2. Vận động quốc tế ủng hộ lập trường về biển
và thái dộ hiếu ḥa của Việt Nam trong những cuộc tranh chấp về vấn đề chủ
quyền và khai thác dầu khi trên Biển Đông.
3. Trong trung hạn là hợp tác với các nước để
khai thác những dvùng biển và thềm lục địa của Việt Nam đă được quốc tế
công nhận (hay không phản đối).
4. Về dài hạn là củng cố quốc pḥng, liên
minh chiến lược, diễn tập chiến thuật chung với các nước trong khu vực và
quốc tế có cùng chung quyền lợi để đối trọng với Trung Quốc.
5. Tiến đến việc đưa vấn đề chủ quyền Hoàng
Sa và Trường Sa ra ṭa án quốc tế để ngăn ngừa trường hợp Trung Quốc sử
dụng vũ lực để giải quyết tranh chấp.
6. Ǵn giữ quan hệ Việt-Trung ḥa b́nh, hữu
nghị, ổn định, b́nh đẳng và hợp tác để cùng phát triển lâu dài theo đúng
nghĩa mà lănh đạo Trung Quốc đă cam kết. Yêu cầu phía Trung Quốc chấm dứt
mọi hành động đe dọa, khiêu khích và bắt giữ ngư dân Việt Nam, không có
hành động gây phức tạp và căng thẳng thêm t́nh h́nh hiện nay.
Trong vấn đề Biển Đông chúng ta cần phải phân biệt
các mối quan hệ tranh chấp sau đây:
Thứ nhất, tranh chấp chủ quyền trên quần đảo
Hoàng Sa là tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc (hiện nay Trung Quốc
đang chiếm đóng trái phép toàn bộ quần đảo này bằng cuộc chiến tranh xâm
lược vào tháng 1 năm 1974).
Thứ hai, tranh chấp chủ quyền trên quần đảo
Trường Sa là tranh chấp đa phương: giữa Việt Nam với Trung Quốc, Đài Loan,
Philippines, Malaysia, Brunei (chỉ có duy nhất Brunei lên tiếng về chủ
quyền nhưng không có chiếm đóng).
Thứ ba, việc tuyên bố đường lănh hải lưỡi ḅ
của Trung Quốc ở Biển Đông (chiếm 80% diện tích trên Biển Đông) là một yêu
sách vô lư, bất chấp luật pháp quốc tế, ḥng độc chiếm Biển Đông
Do đó để giải quyết vấn đề Biển Đông, chúng ta cần
phải xác định nội dung và lộ tŕnh cho các biện pháp đấu tranh theo thứ tự
ưu tiên sau đây:
“… Vấn đề gác
tranh chấp, cùng khai thác đă được phía Trung Quốc đưa ra, nhưng sẽ rất
khó thực hiện mỗi khi Trung Quốc khăng khăng yêu sách chủ quyền trên Biển
Đông theo ‘chiếc lưỡi ḅ’…”
Đầu tiên cần phải đấu tranh về mặt luật pháp quốc tế
để bác bỏ chủ trương lănh hải theo đường lưỡi ḅ của Trung Quốc v́ chủ
trương này là bất hợp pháp.
Ngoài việc Việt Nam đă cung cấp hồ sơ về lănh hải
của Việt Nam cho Ủy ban Ranh giới thềm lục địa của Liên Hiệp Quốc (CLCS)
đúng thời hạn, chúng ta cần tổ chức nhiều cuộc hội thảo quốc tế vận động
các nước Philippines, Malaysia, Indonesia, Brunei cùng thống nhất quan
điểm công bằng và hợp lư về việc phân định lănh hải.
Về mặt địa lư lẫn luật pháp quốc tế, Trung Quốc
không có lư do ǵ để kéo dài thềm lục địa của họ ra đến đây. Các đảo họ
chiếm của Việt Nam th́ đang trong ṿng tranh chấp, vả lại, các đảo này
không thể có vùng kinh tế độc quyền hay thềm lục địa. Việt Nam cần phải
liên minh chặt chẽ với các nước trong khu vực để phản đối, gây sức ép bằng
cách đặt vấn đề tranh chấp này trong các cuộc đàm phán trong quan hệ song
phương lẫn diễn đàn đa phương, tạo tiền đề cho việc đưa vấn đề ra ṭa án
quốc tế.
Các quan chức cao cấp của Hoa Kỳ đă nhiều lần phát
biểu về quan điểm của chính phủ Hoa Kỳ trong vấn đề Biển Đông là không can
dự nhưng luôn luôn nhấn mạnh đến việc tuân thủ Luật Biển quốc tế 1982.
Quan điểm quan trọng nhất của Hoa Kỳ trong vấn đề Biển Đông là cam kết của
nguyên Tổng thống Hoa Kỳ G. Bush về sự toàn vẹn và thống nhất lănh thổ của
Việt Nam. Cũng như trước đây khi phát biểu về quan hệ giữa Việt Nam và
Trung Quốc liên quan đến Hoàng Sa và Trường Sa, Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt
Nam, Michael Michalak nói: “Về vấn đề ở Biển Đông, Hoa Kỳ không có lập
trường nào về những vụ tranh chấp lănh thổ trong vùng biển này. Chúng tôi
tin tưởng vào quyền tự do hàng hải và sự khai phóng của các thủy lộ, và
chúng tôi hành xử quyền tự do hàng hải của ḿnh qua việc đưa tàu bè đi qua
các thủy lộ này. Chúng tôi đă gặp phải sự can thiệp trái phép của tàu bè
Trung Quốc đối với tàu Impeccable. Tôi nghĩ rằng chúng tôi đă có phản ứng
thận trọng và thỏa đáng trong vụ này. Chúng tôi cũng đă áp dụng thêm những
biện pháp để bảo đảm quyền tự do hàng hải và kiên quyết thể hiện quyền này".
Mới đây, trong cuộc tiếp xúc với báo chí tại
Malaysia (4), Đô đốc Robert F. Willard,
Tư lệnh Bộ chỉ huy Thái B́nh Dương của Hoa Kỳ đă nói: “Trong năm 2010,
toàn bộ khu vực đă trở nên quan ngại về khả năng các vụ đụng độ ở Biển
Đông”, “Vâng, tôi thấy lo lắng bất cứ khi nào chứng kiến căng thẳng gia
tăng và va chạm diễn ra ở khu vực rất chiến lược và rất quan trọng với tất
cả chúng ta”.
Tư lệnh Robert F. Willard tiếp tục tuyên bố: “Hoa Kỳ
không đứng về phía nào trong một cuộc tranh chấp. Đó là cam kết mạnh mẽ để
thấy rằng các bên tranh chấp giải quyết vấn đề ḥa b́nh và thông qua hội
đàm, không đối đầu trên biển hay trên không”.
Khái niệm “tự do hàng hải” mà nhiều lần Hoa Kỳ đề
cập đến cũng chính là Luật Biển Quốc tế 1982. Đây là lợi thế của Việt Nam
trong việc đấu tranh khẳng định chủ quyền của ḿnh trên Biển Đông.
Hy vọng rằng đây là một tín hiệu tốt cho tương lai
khu vực Đông Nam Á và sẽ được phía Trung Quốc thể hiện bằng hành động cụ
thể. |